Cây cỏ gấu là gì?

Cây cỏ gấu còn gọi là củ gấu, cỏ cú, hương phụ.
Tên khoa học: Cyperaccae

Vị cỏ gấu là thân rễ – Rhizoma Cyperi – phơi khô hay sấy khô của cây củ gấu hay còn cỏ gấu Cyperus rotundus L.

Cây cỏ gấu là loại cỏ khó tiêu diệt đối với nhà nông, nhưng là một vị thuốc quý nếu biết sử dụng. Các nhà đông y thường truyền nau câu: “nam bất thiểu trần bì, nữ bất ly hương phụ” có nghĩa là chữa bệnh cho nam giới thì không thể thiếu được trần bì và chữa cho nữ giới không thể không dùng vị hương phụ.

Trong khi làm cỏ, nếu biết xử lý thì vừa giải quyết được một loại cỏ vừa có thêm một cây thuốc quý.

Mô tả?

Cỏ gấu là một loại cỏ sống lâu năm, cao 20-60cm, thân rễ phát triển thành củ, tuỳ theo đất rắng hay xốp củ phát triển to hay nhỏ, ở vùng bờ biển củ to dài còn gọi là hải hương phụ (hương phụ vùng biến). Lá nhỏ hẹp, ở giữa lưng có gân nổi lên, cứng và bóng, phần dưới lá ôm lấy thân cây.

Cây cỏ gấu
Cây cỏ gấu

Vào tháng 6, trên ngọn cây có 3 đến 8 cụm hoa hình tán màu xám nâu, hoa lưỡng tính, 3 nhị dài chừng 2mm, nhuỵ có đầu núm chia thành 2 nhánh như lông tơ. Quả 3 cạnh màu xám.

Phân bổ, thu hái?

Cỏ gấu mọc hoang khắp nơi trên đồng ruộng, ven đường. Tại ven biển, đất cát xốp củ to hơn, dễ đào hơn. Đối với nhà nông, đầy là một loại cỏ rất khó tiêu diệt. Chỉ cần sót lại một mẩu thana rễ nhỏ cũng đủ phát triển. Còn thấy mọc ở nước khác vùng châu Á như Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản, Indonexia.

Thu hoạch củ gấu hiện nay chỉ mới dựa vào nguồn mọc hoang thiên nhiên; không ai trồng. Có thể kết hợp với việc làm cỏ vườn, ruộng để thu hoạch hay có thể tổ chức thu hái riêng. Thường hay đào về mùa xuân, nhưng đào về mùa thu củ chắc và tốt hơn.

Sau khi đào toàn cây, người ta phơi cho khô, vun thành đống để đốt, lá và rễ con cháy hết, còn lại củ lấy riêng ra rửa sạch, phơi hay sấy khô.

Khi dùng có thể dùng sống (nghĩa là củ chế biến như trê, dùng ngay), sắc hay ngâm rượu tán bột. Có thể chế biến thêm nữa. Các cụ lương y thường chế biến phức tạp rồi mới dùng. Theo kinh nghiệm của chúng tôi thì không cần chế biến gì thêm vẫn tốt.

Các lương y thường dùng thất chế hoặc tứ chế hương phụ, phổ biết nhất là tứ chế. Thất chế hay tứ chế cũng lại có nhiều cách làm. Dưới đây chugs tôi giới thiệu phương pháp hay dùng nhất:

Cân 1kg hương phụ, chia làm 4 phần: một phần 250g ngâm với 200ml giấm có axit 5%, một phần ngâm rượu 40%, một phần ngâm nước tiêu trẻ em khoẻ mạnh, bỏ phần đầu và phần cuối, chỉ lấy phần giữa, một phần ngâm nước muối 15%. Thời gian ngâm thay đổi tuỳ theo mùa:
1 ngày 1 đêm nếu là mùa hè, 3 ngày 3 đêm nếu là mùa thu, 7 ngày 7 đêm nếu là mùa đông. Cuối cùng lấy ra sao hay phơi khô rồi trộn đều 4 phần với nhau.

Cây cỏ gấu – hương phụ

Theo lý luận đông y, ngâm giấm vị chua là để thuốc vào gan, muối vị mặn sẽ dẫn thuốc vào thận, rượu bố lên cho nên dẫn thuốc đi lên trên, nước tiểu thêm tác dụng bổ.

Đáng lẽ chia 4 phần, có người dùng giấm và rượu mỗi thứ 160g, muối 20g, nước tiểu trẻ nhỏ mạnh khoẻ vừa đủ ngập cỏ gấu (hương phụ), cho vào đó 600g cỏ gấu rồi ngâm theo thời gian nói trên, cuối cùng sấy hay phơi khô mà dùng.

Thất chế là làm như trên nhưng thêm 3 lần tẩm nữa như tẩm với nước gừng, tẩm với nước cam thảo, tẩm với nước vo gạo. Nghĩa là tẩm với 7 thứ.

Thành phần hoá học?

Hoạt chất của hương phụ hiện chưa rõ. Chỉ mới biết trong hương phụ (cỏ gấu) có từ 0,3-2,8% tinh dầu màu vàng, mùi thơm nhẹ đặc biệt của cỏ gấu.

Tác dụng dược lý?

Theo Trương Phát Sơ, Trương Diệu Đức và Lưu Thiệu Quang (1935, Trung Hoa y học tạp chí tập 1, kỳ 2: 148-156) đã dùng vị cỏ gấu (hương phụ) nguồn gốc ở tỉnh Quảng Đông, nhưng bán ở Nam Kinh chế thành cao lỏng 5%, tiến hành thí nghiệm 102 lần trên tử cung cô lập của thỏ, mèo, chó và chuột bạch đã chứng minh cỏ gấu (hương phụ) có khả năng ức chế co bóp của tử cung, làm dịu sự căng thẳng của tử cung dù con vật có thai hay không có thai đều như nhau, gần như có tác dụng trực tiếp làm cho cơ tử cung dịu lại. So sánh tác dụng của cao lỏng hương phụ và cao lỏng đương quy (một vị thuốc bắc hiện nay còn phải nhập có tác dụng chữa bệnh phụ khoa) thì tác dụng giống nhau, nhưng tác dụng của đương quy mạnh hơn.

Năm 1959, một số tác giả ở Quí Dương y học viện (Trung Quốc) báo cáo nghiên cứu và chứng minh tác dụng giảm đau trên chuột nhắt trắng.

Công dụng và liều dùng?

Cỏ gấu – Hương phụ là một vị thuốc kinh nghiệm nhân dân. Tính chất của hương phụ trong các sách cổ: Vị cay, hơi đắng, ngọt, vào hai kinh can và tam tiểu. Có tác dụng lý khí, giải uất, điều kinh, chỉ thống (làm hết đau), chữa khí uất, ung thư, ngực bụng chướng đau.

Củ cỏ gấu
Củ cỏ gấu

Hương phụ thường được dùng:

Chữa kinh nguyệt không đều: Thấy kinh, đau bụng, viêm tử cung mãn tính, các bệnh phụ nữ trước và sau khi sinh nở.

Chữa đau dạ dày do thần kinh, giúp sự tiêu hoá, ăn không tiêu, chữa nôn mửa, đau bụng, đi lỵ.

Ngày dùng 6-12g dưới dạng thuốc sắc, thuốc bột hay thuốc viên hoặc rượu thuốc.

Một số bài thuốc chữa bệnh từ cỏ gấu

Dưới đây là một số bài thuốc từ cỏ gấu dành cho bạn tham khảo:

Chữa đau dạ dày: Hương phụ 30g, Riềng 15g, tán thành bột mịn. Dùng 3g với nước ấm, hai lần trong ngày;

Chữa nhiệt khí bốc lên đầu mắt làm xây xẩm, đau đầu, đau nửa đầu: hương phụ cạo sạch vỏ, cho nước vào nấu qua một lát, giã dập, phơi khô rồi sao vàng tán bột, hoàn với mật, to bằng viên đạn. Mỗi lần uống 1 viên với nước nóng, phụ nữ thì uống với giấm.

Chữa tiêu hóa kém: Hương phụ (sao) 12g, vỏ Quýt (sao) 12g, vỏ Vối (sao) 12g, vỏ Rụt (sao) 16g, Chỉ xác 12g. Sắc nước uống; nếu có kèm tiêu chảy, thêm củ riềng 8g, búp Ổi 12g.

Chữa đau sườn ngực và đau dạ dày cơ năng: hương phụ 8g, ô dược 10g, cam thảo 4g, sắc uống;

Chữa trướng bụng: hương phụ 8g, hải tảo 4g, nấu với rượu, rồi lấy nước mà uống và ăn luôn cả hải tảo;

Phụ nữ có thai nôn khan, nôn ra nước chua, thai động, ăn uống không ngon và nằm ngồi không được: hương phụ 80g, hoắc hương 8g, cam thảo 8g. Tán bột, mỗi lần uống 8g với nước sôi và ít muối;

Chữa kinh nguyệt không đều: hương phụ (sao) 9g, ích mẫu thảo 20g, đường đỏ (hồng đường) 20g. Hương phụ và ích mẫu nấu trước, khi sôi đều, lọc bỏ bã, thêm đường vào uống. Liên tục 3 – 5 ngày;

Chữa rong kinh, trĩ bị chảy máu rỉ rả: hương phụ sao qua tán mịn, mỗi lần uống 6g với nước cháo hoặc nước hồ nếp;

Chữa đau bụng kinh: Hương phụ, ngải diệp, trần bì đều 15g, nguyệt qùy hoa 2 đóa, sắc uống. Hoặc Hương phụ 20g, ích mẫu thảo 10g, sắc uống.

Một số bài thuốc khai uất, điều kinh

Bài 1 – Hoàn hương phụ chế: hương phụ chia làm 4 phần, ngâm riêng mỗi phần với muối, dấm, rượu, nước tiểu trẻ em. Sao khô, nghiền thành bột mịn hoặc làm hoàn. Mỗi lần uống 6g, uống với nước cháo hoặc nước hồ nếp. Trị kinh nguyệt không đều do tinh thần uất ức, đau bụng dưới khi có kinh, vú trướng đau; rong kinh, trĩ chảy máu rỉ rả.

Bài 2: hương phụ tứ chế 20g, lá ngải 20g, trần bì 20g, nguyệt quý hoa 2 đóa. Sắc uống. Trị đau bụng kinh

Bài 3: hương phụ tứ chế 30g, ích mẫu thảo 12g. Sắc uống. Trị đau bụng kinh.

Hành khí, giảm đau

Bài 1 – Thang tiểu ô trầm: hương phụ 8g, ô dược 12g, cam thảo 4g. Sắc uống. Trị ngực bụng trướng đau, bệnh về chức năng thần kinh dạ dày.

Bài 2 – Hoàn lương phụ: hương phụ 12g, cao lương khương 12g. Sắc uống. Trị dạ dày hàn khí.

Bài 3: hương phụ 12g, diên hồ sách 8g. Sắc uống. Trị ngực sườn trướng đau.

Kiện vị, tiêu thực

Dùng bài Thang hương sa dưỡng vị gồm: hương phụ 8g, sa nhân 4g, mộc hương 6g, hậu phác 12g, hoắc hương 8g, bạch truật 12g, trần bì 12g, phục linh 12g, bán hạ 12g, cam thảo 4g, gừng sống 12g, đại táo 5 quả. Sắc uống. Trị tỳ vị hư nhược, tiêu hóa không tốt gây các chứng nôn, tiêu chảy, trướng đau.

Lưu ý: Người Âm hư huyết nhiệt không nên dùng.

Trích sách (Gs.Ts Đỗ Tất Lợi)/http://www.caythuocnamdantoc.com/2018/01/cay-co-gau-huong-phu-chua-benh-con-gai.html

5/5 (1 Review)